QUAN HÁN KHANH (GUAN HAN-QING) VÀ TẢN KHÚC (SAN-QU)

Ở Việt Nam cho đến nay, việc tìm đọc, nghiên cứu văn học Trung Quốc và xuất bản các ấn phẩm văn học cổ điển Trung Quốc hầu như tập trung vào hai thể loại: về thơ có Đường thi (Tang-shi), về văn xuôi có Minh - Thanh tiểu thuyết (Ming - Qing xiao-shuo). 

Nói riêng trong địa hạt thơ ca, người Việt nhắc đến thơ cổ điển Trung Quốc đa phần chỉ biết đến Đường thiVương Quốc Duy (Wang Guo-wei) từng nói: "Phàm nhất đại hữu nhất đại chi văn học. Sở chi tao, Hán chi phú, Đường chi thi, Tống chi từ, Lục triều chi biền ngữ, Nguyên chi khúc giai sở vị nhất đại chi văn học, nhi hậu thế mạc năng kế yên giả" (Phàm thời nào có văn học thời ấy. Tao của thời Sở, phú của thời Hán, thi của thời Đường, biền ngữ của thời Lục triều, khúc của thời Nguyên đều được gọi là văn học của một thời, mà đời sau khó bì được vậy). Như vậy Đường thi cũng chỉ là văn học của một thời. Bầu trời văn học cổ điển Trung Quốc vẫn còn nhiều vì sao với ánh sáng ngang tầm với Đường thi, mà những ai khẳng định mình yêu thích văn chương cổ điển Trung Quốc không thể bỏ qua, không thể không dạo chơi để thưởng thức, tìm hiểu; trong đó có những thể loại văn học gần gũi với thi (nói chung và của đời Đường nói riêng).

Tôi muốn nói đến Nguyên khúc (Yuan-qu), văn chương của một thời đại ngắn ngủi chưa đầy một trăm năm.

Ở Việt Nam, Nguyên khúc hầu như chỉ được đề cập trong một số công trình viết về lịch sử văn học Trung Quốc; những nghiên cứu sâu rộng về Nguyên khúc vẫn chưa xuất hiện, trong khi đã có những công trình, tuy không nhiều lắm, nghiên cứu về Tống từ (Song-ci). 

Nhưng ngay cả khi các công trình ở Việt Nam đề cập đến Nguyên khúc, cái được quan tâm nhất chỉ là tạp kịch (za-ju). Tạp kịch đời Nguyên quả thực là đỉnh cao của hí kịch (xi-ju) cổ điển Trung Quốc. Thế nhưng song song với tạp kịch, cũng có một thể loại phát triển rực rỡ và đạt đến thời kì hoàng kim của nó trong suốt hơn chín mươi năm đời Nguyên; đó chính là tản khúc (san-qu), một thể thơ gắn liền với âm nhạc sân khấu (thơ để hát, đặc biệt là hát kịch). 

Khá ít sách vở ở Việt Nam viết về tản khúc Nguyên và chưa có nghiên cứu nào so sánh tản khúc Nguyên với các thể loại văn học cổ điển Việt Nam. Có một lí do khả dĩ chính là chưa có một tài liệu dịch thuật quy mô lớn nhằm giới thiệu cụ thể về tản khúc Nguyên, trừ những bài dịch lẻ tẻ trong các sách văn học sử.

Từ thực tế trên, tôi đã dành thời gian tìm hiểu về tản khúc Nguyên và tự tìm đọc tản khúc Nguyên trên nguyên bản tiếng Trung (thú vị là khác với Đường thi, tản khúc Nguyên chứa cả bạch thoại trong lời thơ). Tôi đã bắt gặp Quan Hán Khanh (Guan Han-qing) và tản khúc của ông. Trung Quốc có "Nguyên khúc tứ đại gia", đứng đầu là Quan Hán Khanh. Ở Việt Nam, Quan Hán Khanh được biết đến như một nhà soạn kịch kì tài với vở Đậu Nga oan (Oan nàng Đậu Nga), nhưng ít ai biết rằng ông còn là một nhà tản khúc tài hoa.

关汉卿 Guan Hanqing. 1220年─1300年. | Japanese artwork, Sketches, Artwork
QUAN HÁN KHANH (1220? - 1300?)
關漢卿

Tôi chọn ra và phiên dịch 11 tản khúc Quan Hán Khanh mà tôi yêu thích nhất ra tiếng Việt. Hi vọng rằng những bản dịch tản khúc này có thể đóng góp vào việc nghiên cứu tản khúc Nguyên ở Việt Nam. Trong tương lai, tôi dự kiến sẽ đọc và dịch toàn bộ tản khúc của Quan Hán Khanh, công bố trước ở blog này. Đây là một công việc rất khó khăn. Cá nhân tôi mong rằng mình có thể tìm được sự trợ giúp từ những người có chuyên môn về văn học Trung Quốc và dịch thuật.

HÁN VĂN

PHIÊN ÂM HÁN VIỆT

DỊCH THƠ

1.南呂·四塊玉别情

自送別,

心難捨,

一點相思幾時絕。

憑闌袖拂揚花雪。

溪又斜,

山又遮,

人去也。

1. [Nam lã - Tứ khối ngọc] Biệt tình

Tự tống biệt,

Tâm nan xả,

Nhất điểm tương tư kỉ thời tuyệt.

Bằng lan tụ phất dương hoa tuyết.

Khê hựu tà,

Sơn hựu già,

Nhân khứ dã.

1. [Nam lã - Tứ khối ngọc] Biệt tình

Từ ngày tiễn biệt,

Lòng chẳng nỡ buông,

Tương tư một thoáng chẳng ngừng tuôn.

Tựa lan can, áo phất tuyết nơi hoa.

Suối quanh co,

Non cách trở,

Người đi xa.

2.〔雙調·大德歌〕

子規啼,

不如歸,

道是春歸人未歸,

幾日添憔悴

虛飄飄柳絮飛,

一春魚雁無消息,

則見雙燕斗銜泥。

2. [Song điệu - Đại Đức ca] Xuân

Tử quy đề,

Bất như quy,

Đạo thị xuân quy nhân vị quy,

Kỷ nhật thiêm tiều tuỵ.

Hư phiêu phiêu liễu nhứ phi,

Nhất xuân ngư nhạn vô tiêu tức,

Tắc kiến song yên đẩu hàm nê (ni).

2. [Song điệu - Đại Đức ca] Mùa xuân

Đỗ Quyên khóc,

Chẳng bằng về,

Xuân đã lại bóng người chẳng thấy,

Ngày trôi qua dáng vóc thêm gầy.

không tơ liễu nhẹ lung lay,

Một xuân chim cá không tin tức,

Lại thấy đôi yên quấn quít bay.

3.〔雙調·大德歌〕

俏冤家,

在天涯,

偏那裡綠楊堪系馬。

困坐南窗下,

數對清風想念他。

蛾眉淡了教誰畫?

瘦巖巖羞戴石榴花。

3. [Song điệu - Đại Đức ca] Hạ

Tiếu oan gia,

Tại thiên nhai,

Thiên na lí lục dương kham hệ mã.

Khốn toạ nam song hạ,

Sổ đối thanh phong tưởng niệm tha.

Nga mi đạm liễu giáo thuỳ hoạ?

Sấu nham nham tu đái thạch lựu hoa.

3. [Song điệu - Đại Đức ca] Mùa hạ

Tình nhân ơi,

Tại chân trời,

Nơi dương xanh ràng chân ngựa mãi.

Dưới song dáng vẻ mệt nhoài,

Nhớ chàng gió biếc đếm hoài từng cơn.

Nét ngài phai nhạt ai sơn?

Hao gầy một vẻ tủi hờn với hoa.

4.〔雙調·大德歌〕

風飄飄,

雨瀟瀟,

便做陳搏睡不著,

懊惱傷懷抱,

撲簌簌淚點拋。

秋蟬兒噪罷寒蛩兒叫,

淅零零細雨打芭蕉。

4. [Song điệu - Đại Đức ca] Thu

Phong phiêu phiêu,

Vũ tiêu tiêu,

Tiện tố Trần Đoàn thuỵ bất chiêu,

Áo não thương hoài bão,

Phốc tốc tốc lệ điểm phao.

Thu thiền nhi táo bãi hàn cung nhi khiếu,

Tích linh linh tế vũ đả ba tiêu.

4. [Song điệu - Đại Đức ca] Mùa thu

Gió hiu hiu,

Mưa lất phất,

Như Trần Đoàn cũng chẳng yên giấc,

Sầu não bi thương cất vào lòng,

Từ khoé mắt ròng ròng lệ chảy.

Ngày thu ve kêu đêm dế gáy,

Tí tách mưa sa lá chuối lay.

5.〔雙調·大德歌〕

雪紛紛,

掩重門,

不由人不斷魂,

瘦損江梅韻。

那裡是清江江上村,

香閨裡冷落誰瞅問?

好一個憔悴的憑欄人。

5. [Song điệu - Đại Đức ca] Đông

Tuyết phân phân,

Yểm trọng môn,

Bất do nhân bất đoạn hồn,

Sấu tổn Giang Mai vận.

Na lí thị thanh giang giang thượng thôn,

Hương khuê lí lãnh lạc thuỳ thu vấn?

Hảo nhất cá tiều tuỵ đích bằng lan nhân.

5. [Song điệu - Đại Đức ca] Mùa đông

Tuyết rơi đầy,

Khép cửa dày,

Vì ai hồn này đứt đoạn,

Hao gầy mất vẻ Giang Mai.

Đằng kia sông biếc xóm ai,

Cửa khuê hoang vắng mấy ai thăm chào?

Lan can ai tựa gầy mòn xiết bao.

6.·梧叶儿别情

別離易,

相見難,

何處鎖雕鞍?

春將去,

人未還。

這其間,

殃及煞愁眉泪眼。

6. [Thương điệu - Ngô hiệp nhi] Biệt tình

Biệt li dị,

Tương kiến nan,

Hà xứ toả điêu yên (an)?

Xuân tương khứ,

Nhân vị hoàn.

Giá kì gian,

Ương cập sát sầu mi lệ nhãn.

6. [Thương điệu - Ngô hiệp nhi] Biệt tình

Dễ xa nhau,

Khó gặp nhau,

Người ngựa đi biền biệt nơi đâu?

Xuân sắp hết,

Người chưa về.

Lúc bấy giờ,

Ngỡ như chết mi sầu mắt lệ.

(Có tham khảo bản dịch của Hồ Lãng)

7.雙調·碧玉簫()

怕見春歸,

枝上柳綿飛。

靜掩香閨,

帘外曉鶯啼。

恨天涯錦字稀,

夢才郎翠被知。

寬盡衣,

一搦腰肢

癡,

暗暗的添憔悴。

7. [Song điệu - Bích ngọc tiêu] (bài 2)

Phạ kiến xuân quy,

Chi thượng liễu miên phi.

Tĩnh yểm hương khuê,

Liêm ngoại hiểu oanh đề.

Hận thiên nhai cẩm tự hi,

Mộng tài lang thuý bị tri.

Khoan tận y,

Nhất nạch yêu chi tế.

Si,

Ám ám đích thiêm tiều tuỵ.

7. [Song điệu - Bích ngọc tiêu] (2)

Ngại nhìn xuân trở lại,

Trên cành tơ liễu bay.

Buồng khuê im lìm khép,

Ngoài rèm tiếng oanh say.

Hận chân trời chẳng nhiều thư gấm,

Mộng tài lang chăn thuý mới hay.

Cởi hết xiêm y,

Tay eo một vẻ co gầy.

Si,

Âm thầm thêm tiều tuỵ.

8.雙調·碧玉簫()

席上樽前,

衾枕奈無緣。

柳底花邊,

詩曲已多年。

向人前未敢言,

自心中禱告天。

情意堅,

每日空相見。

天,

甚時節成煙睠?

8. [Song điệu - Bích ngọc tiêu] (bài 6)

Tịch thượng tôn tiền,

Khâm chẩm nại vô duyên.

Liễu để hoa biên,

Thi khúc dĩ đa niên.

Hướng nhân tiền vị cảm ngôn,

Tự tâm trung đảo cáo thiên.

Tình ý kiên,

Mỗi nhật không tương kiến.

Thiên,

Thậm thì tiết thành yên quyến?

8. [Song điệu - Bích ngọc tiêu] (6)

Ngồi trước chén rượu,

Chăn gối chẳng có duyên.

Gốc liễu diềm hoa,

Thơ khúc nhiều năm qua.

Trước người xưa chưa dám nói,

Tự trong lòng nguyện với trời.

Ý tình son sắt,

Mỗi ngày chẳng gặp nhau.

Xanh cao ơi,

Đến khi nào thành yên quyến?

9.雙調·碧玉簫()

膝上琴橫,

哀愁動离情。

指下風生,

瀟灑弄清聲。

瑣窗前月色明,

雕闌外夜氣清。

指法輕,

助起騷人興,

聽,

正漏斷人初靜。

9. [Song điệu - Bích ngọc tiêu] (bài 7)

Tất thượng cầm hoành,

Ai sầu động li tình.

Chỉ hạ phong sinh,

Tiêu sái lộng thanh thanh.

Toả song tiền nguyệt sắc minh,

Điêu lan ngoại dạ khí thanh.

Chỉ pháp khinh,

Trợ khởi tao nhân hứng,

Thính,

Chính lậu đoạn nhân sơ tĩnh.

9. [Song điệu - Bích ngọc tiêu] (7)

Đàn ngang đầu gối,

Tiếng buồn chạm nỗi tình chia phôi.

Dưới ngón tay gió nổi,

Tiêu sái đùa âm trong.

Trước cửa ngọc màu trăng sáng,

Ngoài song hoa khí đêm lành.

Ngón đàn êm nhẹ,

Gợi hứng tao nhân,

Lắng nghe,

Đúng canh tàn người khẽ.

10.雙調·沉醉東風()

咫尺的天南地北,

霎時間月缺花飛。

手執着餞行杯,

眼閣着別离泪。

剛道聲保重將息,

痛煞煞教人舍不得,

好去者前程萬里。

10. [Song điệu - Trầm tuý đông phong] (bài 1)

Chỉ xích đích thiên nam địa bắc,

Sáp thì gian nguyệt khuyết hoa phi.

Thủ chấp trước tiễn hành bôi,

Nhãn các trước biệt li lệ.

Cương đạo đắc thanh bảo trọng tương tức,

Thống sát sát giáo nhân xả bất đắc,

Hảo khứ giả vọng tiền trình vạn lí.

10. [Song điệu - Trầm tuý đông phong] (1)

Trời nam đất bắc trong gang tấc,

Trăng khuyết hoa tàn chốc bóng âu.

Tay nâng chén rượu đưa nhau,

Mắt ngưng ngấn lệ nỗi sầu biệt li,

Vừa nói câu “gìn thân dưỡng thể”.

Đã nghẹn lời chẳng dễ rời nhau,

Người đi muôn dặm ruổi mau.

(Có tham khảo bản dịch của Hồ Lãng)

11.大石調·青杏子離情

殘月下西樓,

覺微寒輕透衾裯。

華胥一枕彎跧覺,

藍橋路遠,

玉峰煙漲,

銀漢雲收。

天付兩風流,

番成南北悠悠,

落花流水人何處?

相思一點,

離愁幾許,

撮上心頭。

〔荼蘼香〕

記得初相守,

偶爾間因循成就,

美滿效綢繆。

花朝月夜同宴賞,

佳節須酬,

到今一旦休。

常言道好事天慳,

美姻緣他娘間阻,

生拆散鸞交鳳友。

〔幺〕

坐想行思,

傷懷感舊,

各辜負了星前月下深深咒。

願不損,

愁不煞,

神天還佑。

他有日不測相逢,

話別離情取一場消瘦。

〔好觀音煞〕

與怪友狂朋尋花柳,

時復間和哄消愁。

對著浪蕊浮花懶回首,

怏怏歸來,

原不飲杯中酒。

〔尾〕

對著盞半明不滅的孤燈雙眉皺,

冷清清沒個人瞅,

誰解春衫紐兒扣?

11. [Đại thạch điệu - Thanh hạnh tử] Li tình

Tàn nguyệt hạ tây lâu,

Giác vi hàn khinh thấu khâm chù.

Hoa Tư nhất chẩm loan thuyên giáo,

Lam Kiều lộ viễn,

Ngọc Phong yên trướng,

Ngân Hán vân thu.

[Yêu]

Thiên phó vũ phong lưu,

Phiên thành nam bắc du du,

Lạc hoa lưu thuỷ nhân hà xứ?

Tương tư nhất điểm,

Li sầu kỉ niên,

Toát thượng tâm đầu.

[Trà mi hương]

Kí đắc sơ tương thủ,

Ngẫu nhĩ gian nhân tuần thành tựu,

Mỹ mãn hiệu trù mâu.

Hoa triêu nguyệt dạ đồng yến thưởng, 

Giai tiết tu thù, 

Đáo kim nhất đán hưu.

Thường ngôn đạo hảo sự thiên khan,

Mỹ nhân duyên tha nương gian trở,

Sinh sách tán loan giao phượng hữu.


[Yêu]

Toạ tưởng hành tư,

Thương hoài cảm cựu,

Các cô phụ liễu tinh tiền nguyệt hạ thâm thâm chú.

Nguyện bất tổn,

Sầu bất sát,

Thần thiên hoàn hựu.

Tha hữu nhật bất trắc tương phùng,

Thoại biệt li tình thủ nhất trường tiêu sấu.

[Hảo Quan Âm sát]

Dữ quái hữu cuồng bằng tầm hoa liễu,

Thì phục gian hoà hống tiêu sầu.

Đối trước lãng nhị phù hoa lãn hồi thủ,

Ưởng ưởng quy lai,

Nguyên bất ẩm bôi trung tửu.

[Vĩ]

Đối trước trản bán minh bất diệt đích cô đăng song mi trứu,

Lãnh thanh thanh một cá nhân thu,

Thuỳ giải xuân sam nữu nhi khấu?

11. [Đại thạch điệu - Thanh hạnh tử] Li tình

Lầu tây lặn trăng tàn,

Lành lạnh nhẹ tênh thấm chăn màn.

Một giấc Hoa Tư ngủ oằn mình,

Lam Kiều đường xa,

Ngọc Phong khói toả.

Ngân Hán mây thu.

[Yêu]

Trời mặc gió mưa tuôn,

Nam bắc phiên thành lạc về đâu,

Hoa trôi nước chảy người đâu tá?

Một thoáng thương nhau,

Mấy năm xa buồn,

Cõi lòng quặn đau.

[Trà mi hương]

Thuở ban đầu bên nhau còn nhớ,

Lúc nhân duyên nảy nở tình cờ,

Ý nồng tình thắm.

Hoa sớm trăng đêm ngắm cùng vui,

Đêm trăng nâng chén rượu mời,

Bây giờ đến một buổi mai chẳng còn.

Đời có câu sự lành trời ngán,

Lại có câu duyên đẹp trời can,

Loan giao phượng hữu phải li tan.

[Yêu]

Ngồi cũng nhớ đi cũng mong,

Hoài thương duyên cũ để trong lòng,

Dưới trăng nguyện trước sao thề mà ai nấy phụ.

Nguyện thề còn đủ,

Sầu muộn chưa vơi,

Trời thần còn chở che người.

Ngày không hẹn bỗng gặp nhau,

Nói tình li biệt gầy hao một tràng.

[Hảo Quan Âm sát]

Cùng kẻ dị người ngông tìm hoa liễu,

Bao lúc cùng vui thú tiêu sầu.

Trước hoa nổi nhị trôi biếng quay đầu,

Xoay gót về lại rầu rầu,

Xưa đã cạn chén rượu đâu.

[Vĩ]

Chau mày trước đèn cô nửa tỏ,

Cảnh chơ vơ nào có ai hay,

Cúc áo xuân biết tay ai cởi?


Nguồn:

1. 關漢卿,白樸 & 鄭光祖.(1989).《關漢卿、白樸、鄭光祖散曲》.賀聖遂,林致大 (點校). 上海:上海古籍出版社.

2.  ().(2003).《元曲三百首》.长春:吉林摄影出版社.


SG, 20.07.20

Nhận xét

Bài đăng phổ biến